Khoa học kỹ thuật – Noitrogiadinh.com https://noitrogiadinh.com Nơi chia sẻ kiến thức đời sống, sức khỏe, nuôi dạy con, nội trợ thông minh, mẹo vặt, làm đẹp và phong cách sống tích cực Sun, 14 Sep 2025 13:18:32 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/noitrogiadinh.svg Khoa học kỹ thuật – Noitrogiadinh.com https://noitrogiadinh.com 32 32 Nâng cao thu nhập cho phụ nữ dân tộc thiểu số từ cây măng đặc sản https://noitrogiadinh.com/nang-cao-thu-nhap-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-tu-cay-mang-dac-san/ Sun, 14 Sep 2025 13:18:23 +0000 https://noitrogiadinh.com/nang-cao-thu-nhap-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-tu-cay-mang-dac-san/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm. Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo.

Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương. Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng.

Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất. Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo. Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>
Nâng cao đời sống nhờ phát triển kinh tế địa phương https://noitrogiadinh.com/nang-cao-doi-song-nho-phat-trien-kinh-te-dia-phuong/ Sun, 24 Aug 2025 08:02:46 +0000 https://noitrogiadinh.com/nang-cao-doi-song-nho-phat-trien-kinh-te-dia-phuong/

Ở xã Trung Lý, cấp ủy và chính quyền địa phương đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Mục tiêu là xây dựng và nhân rộng các mô hình kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp người dân đạt hiệu quả kinh tế cao. Anh Thào A Thái, một cư dân tại bản Tà Cóm, dân tộc Mông, đã nổi lên như một tấm gương điển hình trong phát triển kinh tế hộ gia đình thông qua chăn nuôi trâu bò sinh sản và thương phẩm.

Người dân xã Thường Xuân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà màng, nhà lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Người dân xã Thường Xuân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà màng, nhà lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Trước đây, anh Thái là một hội viên nông dân thuần túy, gắn bó với nương lúa và đồi ngô. Tuy nhiên, từ năm 2020, anh đã quyết định áp dụng khoa học kỹ thuật để chuyển hướng sang chăn nuôi. Sự thay đổi này đã mở ra một bước ngoặt quan trọng trong hành trình vươn lên làm giàu chính đáng của anh. Với tầm nhìn kinh doanh và tư duy làm kinh tế, anh Thái nhận thấy tiềm năng lớn trong chăn nuôi đại gia súc. Lý do là có thể tận dụng nguồn thức ăn sẵn có và lực lượng lao động trong gia đình.

Đồng thời, địa phương đã có những chính sách khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Điều này đã tạo động lực cho anh Thái quyết định đầu tư vào chăn nuôi. Vào thời điểm đó, anh đã mua 3 cặp trâu bò về nuôi. Những ngày đầu, cùng với 4 thành viên trong gia đình, anh tất bật chăm sóc đàn vật nuôi từ sáng sớm đến tối. Sự kiên trì và nhẫn nại đã giúp anh Thái tích lũy kinh nghiệm và kỹ thuật trong chăn nuôi. Đến nay, gia đình anh đã phát triển đàn trâu bò lên hơn 50 con bò và 20 con trâu, trở thành hộ gia đình có số lượng gia súc nhiều nhất bản Tà Cóm.

Ngoài chăn nuôi, anh Thái còn triển khai mô hình trồng rừng và khoanh nuôi trên 15ha rừng sản xuất với các loại cây lấy gỗ như xoan, lát. Thông qua mô hình kinh tế tổng hợp của mình, sau khi trừ chi phí, mỗi năm gia đình anh Thái thu lãi khoảng 300 triệu đồng. Không chỉ là một gương điển hình trong phát triển kinh tế gia đình, với vai trò người có uy tín, anh Thái đã tích cực tuyên truyền, hướng dẫn và giúp đỡ bà con dân bản cùng phát triển kinh tế.

Thời gian qua, xã Trung Lý đã triển khai nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả. Điều này đã góp phần tạo việc làm và giảm nghèo bền vững cho người dân địa phương. Điển hình như mô hình trồng quế trên diện tích 20ha với 20 hộ tham gia; mô hình điểm trồng “Cây sắn năng suất cao”; mô hình tổ hợp tác chăn nuôi vịt; nuôi gà thương phẩm; mô hình trồng dược liệu, phát triển cây ăn quả, cây đặc sản… Các mô hình này đã giúp tỷ lệ hộ nghèo tại xã Trung Lý giảm dần hàng năm.

Ngoài xã Trung Lý, các xã khác như Xuân Bình, Thượng Ninh, Thanh Phong cũng tập trung tuyên truyền và hướng dẫn người dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mục tiêu là thay đổi tập quán canh tác và chuyển đổi các mô hình sản xuất để khai thác tiềm năng và lợi thế về đất đai ở địa phương. Nhiều mô hình sản xuất lúa có năng suất và chất lượng cao đã được áp dụng. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi diện tích trồng lúa kém năng suất sang trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao hơn cũng được chú trọng.

Trong lĩnh vực chăn nuôi, các xã đã chuyển giao khoa học kỹ thuật và đưa vào nuôi các loại con giống có năng suất và chất lượng cao. Điều này đã góp phần thay đổi phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa. Qua khảo sát, đã có nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp được áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Điều này đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội và giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số xứ Thanh.

Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo định kỳ năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi của tỉnh đã giảm 4,43% (từ 11,04% xuống còn 6,61%); tỷ lệ hộ cận nghèo giảm 2,66% (từ 14,01% xuống còn 11,35%). Những kết quả đạt được đã nhân lên niềm tin của đồng bào dân tộc khu vực miền núi đối với các mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả. Điều này cũng cho thấy tiềm năng để áp dụng và nhân rộng các mô hình này trong thời gian tới.

]]>